Bệnh viêm khớp dạng thấp ở thiếu niên
Hầu hết mọi người trong đó có rất nhiều cán bộ y tế nghĩ rằng viêm khớp dạng thấp (VKDT) chỉ gặp đối với người lớn tuổi, gây đau đớn và tàn phế cho người bệnh. Nhưng sự thực không chỉ như vậy, bệnh viêm khớp dạng thấp còn gặp cả ở tuổi thiếu niên và có thể để lại những di chứng nặng nề cho trẻ trong quá trình phát triển.
Đặc điểm
Hội nghị nhi khoa Quốc tế năm 1977 đã thống nhất tên gọi “Viêm khớp dạng thấp thiếu niên” (VKDTTN) (Juvenile Rheumatoid Arthritis – JRA) để chỉ tất cả những bệnh viêm khớp mạn tính ở trẻ em dưới 16 tuổi. Trước đó bệnh còn được gọi là viêm khớp tự phát thiếu niên (Juvenile Idiopathic Arthritis – JIA), bệnh Still, Chauffard -Still, hay viêm khớp thiếu niên (Juvenile Arthritis). Đây là bệnh viêm bao hoạt dịch không sinh mủ mạn tính, kết hợp với một số biểu hiện ngoài khớp.
Về bản chất, VKDTTN giống VKDT ở người lớn nhưng khác ở kiểu phản ứng lâm sàng. VKDTTN thường để lại di chứng teo cơ cứng khớp, viêm mống mắt gây tàn tật suốt đời cho trẻ, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì bệnh kéo dài mạn tính nên cần nâng đỡ về mặt tinh thần đối với bệnh nhi. Cần quan tâm đến việc học hành, phục hồi chức năng, tái giáo dục và chỉnh hình.
Tần suất mắc bệnh
Về tần suất nói chung bệnh VKDTTN ít gặp hơn VKDT ở người lớn. Ở Việt Nam chưa có thống kê về bệnh này, nhưng một số thống kê ở Mỹ và châu Âu cho thấy, lứa tuổi mắc bệnh ở khoảng từ 2-16 tuổi, với tỷ lệ 1/1000 trẻ mỗi năm, nữ gặp nhiều hơn nam. Thật may là phần lớn trong số đó thường có diễn biến nhẹ, chỉ khoảng 1/10.000 trường hợp bệnh sẽ tiến triển nặng dần.
Các thể lâm sàng và điều trị
Hiện nay vẫn chưa có phương pháp chẩn đoán đặc hiệu đối với VKDTTN, việc chẩn đoán thường dựa vào các dấu hiệu sau đây:
– Viêm khớp diễn tiến ở trẻ dưới 16 tuổi và kéo dài quá 6 tháng.
– Khám lâm sàng thấy các biểu hiện viêm khớp, ban đỏ, nốt dạng thấp, dấu hiệu viêm nội tạng và/hoặc có viêm mắt.
– Một số xét nghiệm giúp gợi ý chẩn đoán như: tốc độ máu lắng tăng, kháng thể kháng nhân (ANA), yếu tố thấp RF, yếu tố HLA-B27.
– Các hình ảnh X quang và xét nghiệm dịch khớp giúp chẩn đoán phân biệt các bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn.
Có 3 thể lâm sàng của bệnh VKDTTN dựa vào dấu hiệu khởi phát. Đó là: thể viêm ít khớp (Pauciarticular) với dưới 4 khớp bị ảnh hưởng; thể viêm đa khớp (Polyarticular) với tổn thương từ 4 khớp trở lên và thể hệ thống (systemic-onset) với đặc điểm viêm khớp kèm theo sốt và phát ban.
VKDTTN thể ít khớp: Thể này được xác định bởi tình trạng viêm khớp xảy ra ở dưới 4 khớp và diễn biến qua 6 tháng. Thường xuất hiện ở các bé gái với tổn thương ban đầu ở các khớp lớn như: khớp gối, cổ chân, khuỷu, cổ tay. Rất ít khi tổn thương các khớp nhỏ, khớp háng và cột sống. Nếu chỉ viêm một khớp thì thường là khớp gối, khớp sưng đau nhưng vẫn đi lại vận động được. Thể viêm khớp này thường diễn biễn nhẹ và có thể được điều trị bằng những thuốc chống viêm non-steroid (NSAID), nhưng nó cũng có thể gây ra hai di chứng nghiêm trọng, đó là: viêm mống mắt và tình trạng chân bên bệnh dài hơn chân bên lành (do tổn thương viêm kích thích sụn nối tăng hoạt động) làm trẻ đi khập khiễng.
VKDTTN thể đa khớp: Được xác định với bởi tình trạng viêm từ 4 khớp trở lên và kéo dài trên 6 tháng, thể viêm đa khớp thường bắt đầu bởi tình trạng sốt nhẹ kéo dài, mệt mỏi, ăn kém. Về triệu chứng ở khớp, đa số bắt đầu từ một khớp, sau đó phát triển sang khớp khác với tính chất đối xứng, sưng đau, phù nề, có thể có tràn dịch khớp gối, bệnh hay gặp ở khớp cổ tay, cổ chân, gối, khuỷu.
Về xét nghiệm cho thấy kháng thể kháng nhân dương tính ở 75% VKDTTN thể đa khớp có yếu tố dạng thấp dương tính, và ở 25 % VKDTTN thể đa khớp có yếu tố dạng thấp âm tính.
Chụp X quang ở giai đoạn đầu có hình ảnh mất vôi ở đầu xương và cản quang ở phần đầu quanh khớp. Sau một thời gian xuất hiện hình ảnh khuyết nhỏ hoặc bào mòn xương ở phần tiếp xúc giữa sụn khớp và đầu xương, hẹp khe khớp. Cuối cùng, hủy hoại phần sụn khớp và đầu xương.
VKDTTN thể đa khớp là thể nặng nhất do cả số lượng khớp viêm nhiều lẫn tiến triển nặng nề. Bệnh thường tiến triển lâu dài, tăng dần đưa đến dính và biến dạng các khớp, teo cơ nhiều. Trẻ có thể gặp những khó khăn trong các hoạt động bình thường và cần được điều trị chăm sóc đặc biệt.
Về điều trị, điều quan trọng là phải kiểm soát được tình trạng viêm khớp càng nhanh càng tốt. Việc sử dụng các thuốc NSAID với liều tấn công để chống viêm là hết sức cần thiết để giảm các triệu chứng và ngăn ngừa các di chứng về sau, tuy nhiên cần thận trọng các tác dụng phụ của nhóm thuốc này. Các thuốc chống viêm corticoid cũng có thể được cân nhắc nhưng đây không phải là một giải pháp thực tế, do việc sử dụng corticoid kéo dài có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt là đối với trẻ trong thời kỳ phát triển gây tình trạng tầm vóc nhỏ bé, yếu xương…
Hiện nay, có một số chế phẩm sinh học mới được sử dụng trong điều trị VKDT có thể được sử dụng trong điều trị VKDTTN như các thuốc ức chế TNF alpha (etanercept, infliximab, adalimumab).
VKDTTN thể hệ thống: Đây là thể khó khăn nhất của VKDTTN, còn được gọi là bệnh Still. Bệnh gặp ở lứa tuổi 5 – 7, khởi phát cấp tính với biểu hiện toàn thân là sốt cao kéo dài; các biểu hiện tại khớp như: viêm các khớp cổ tay, cổ chân, gối, khuỷu, khớp ngón, ít thấy viêm khớp háng và không có biểu hiện ở cột sống, các khớp viêm sưng, nóng, đau, ít đỏ, có thể có tràn dịch khớp. Kèm theo các biểu hiện ngoài khớp: với các ban đỏ ở da, đây là triệu chứng thường gặp và có tính chất đặc hiệu. Đó là những nốt, chấm màu hồng trên mặt da, không đau, không ngứa, xuất hiện nhiều lúc sốt cao trong ngày rồi mất dần sau vài giờ, ban thường xuất hiện ở thân mình, tứ chi nhất là lòng bàn tay, bàn chân. Ngoài ra còn có thể có các tổn thương nội tạng như tại gan, lách, hạch, viêm màng ngoài tim, viêm màng bụng, màng phổi…
Bệnh tiến triển từng đợt, mỗi đợt vài tuần đến vài tháng, theo ba cách: Sau vài đợt rồi khỏi không để lại di chứng; Kéo dài vài năm, thưa dần rồi khỏi, có thể để lại di chứng ở khớp; Một số trường hợp nặng dần rồi tử vong vì các biến chứng (suy tim, suy thận do nhiễm tinh bột).
Điều trị thể hệ thống bằng các thuốc NSAID (như ibuprofen, naproxen), các thuốc corticoid (prednisolone, prednisone), methotrexate, anakina. Một số nghiên cứu gợi ý sử dụng thalidomide cho kết quả tốt đối với VKDTTN thể hệ thống.
Chăm sóc và phục hồi chức năng
Trong vấn đề chăm sóc và phục hồi chức năng đối với trẻ VKDTTN, thì việc giữ gìn tốt chức năng vận động của khớp, duy trì sức cơ bằng cách làm giảm viêm tại khớp, điều trị bằng lý liệu pháp là những biện pháp quan trọng. Ngoài ra cần chú ý đến các biện pháp ngăn ngừa và xử lý các biến chứng toàn thân, biến chứng do dùng thuốc, các biện pháp kích thích tăng trưởng và phát triển cho trẻ, nâng đỡ tinh thần và giáo dục gia đình biết cách chăm sóc, dinh dưỡng và luyện tập.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ nhiều chuyên ngành trong điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng như: bác sĩ chuyên về khớp, bác sĩ nhãn khoa, bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, bác sĩ dinh dưỡng, bác sĩ tâm lý, chuyên viên vật lý trị liệu, nhóm công tác xã hội và quan trọng nhất là bệnh nhi và gia đình trẻ. Quá trình điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự hợp tác tích cực của bệnh nhi và gia đình mới có kết quả khả quan.
Hiện nay vẫn chưa có phương pháp chẩn đoán đặc hiệu đối với VKDTTN, việc chẩn đoán thường dựa vào các dấu hiệu sau đây:
– Viêm khớp diễn tiến ở trẻ dưới 16 tuổi và kéo dài quá 6 tháng.
– Khám lâm sàng thấy các biểu hiện viêm khớp, ban đỏ, nốt dạng thấp, dấu hiệu viêm nội tạng và/hoặc có viêm mắt.
– Một số xét nghiệm giúp gợi ý chẩn đoán như: tốc độ máu lắng tăng, kháng thể kháng nhân (ANA), yếu tố thấp RF, yếu tố HLA-B27.
– Các hình ảnh X quang và xét nghiệm dịch khớp giúp chẩn đoán phân biệt các bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn.
BS. Mai Trung Dũng